Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hưng Yên tháng 10 và 10 tháng năm 2018
- Thứ hai - 29/10/2018 10:17
- In ra
- Đóng cửa sổ này
1. Nông nghiệp
Trồng trọt
Đối với sản xuất lúa mùa: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa đạt 39.643 ha, giảm 4,05% so với cùng kỳ năm 2017 (giảm 1.671 ha). Một số cây trồng chủ yếu như sau: lúa mùa đạt 33.000 ha, giảm 5,62% (giảm 1.965 ha); ngô 1.619 ha, tăng 2,32% (tăng 36,79 ha); đậu tương 359 ha, giảm 9,07%.
Diện tích gieo trồng lúa giảm là chủ yếu, nguyên nhân do một số hộ dân đã chuyển diện tích đất lúa sang mô hình trồng các loại cây lâu năm (nhãn, chuối, cam...), cây hàng năm khác cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao; nhượng đất cho xây dựng doanh nghiệp, làm kinh tế trang trại,... Những năm gần đây, quá trình chuyển đổi đất trồng từ cây hàng năm sang cây ăn quả diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Trung bình mỗi vụ, diện tích gieo trồng sụt giảm do chuyển từ cây hàng năm sang cây ăn quả khoảng hơn một nghìn ha.
Vụ Mùa năm nay nhiều giống lúa lai có năng suất chất lượng cao tiếp tục được đưa vào sản xuất và ngày càng mở rộng. Diện tích lúa chất lượng cao khoảng hơn 20 nghìn ha, chiếm 61% diện tích, gồm các giống lúa như: Bắc Thơm 7, Hương Thơm 1, nếp thơm Hưng Yên…. Diện tích lúa cao sản khoảng 10 nghìn ha, chiếm 30% diện tích, gồm các giống lúa như: KD18, Thiên ưu 8, TBR1, TH 3-3.
Theo báo cáo tiến độ sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 19/10/2018, diện tích lúa mùa trên địa bàn tỉnh đã thu hoạch đạt 100% diện tích gieo trồng. Ước tính năng suất lúa đạt 57,60 tạ/ha, tăng 4,57 tạ/ha so với vụ Mùa năm 2017. Nguyên nhân chủ yếu là sản xuất vụ Mùa năm nay diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, diện tích nhiễm sâu bệnh giảm so với năm 2017. Năng suất một số cây trồng khác cũng tăng so với năm 2017, như: ngô 60,51 tạ/ha, tăng 0,65 tạ/ha; đậu tương 24,20 tạ/ha, tăng 0,45 tạ/ha.
Sản lượng sơ bộ một số loại cây trồng: Lúa mùa đạt 190.077 tấn, tăng 2,51% (tăng 4.660 tấn); ngô 9.800 tấn, tăng 3,44% (tăng 326 tấn); đậu tương 870 tấn, giảm 7,35% (giảm 69 tấn) so với cùng kỳ năm 2017.
Về gieo trồng cây vụ Đông, cùng với việc khẩn trương thu hoạch lúa mùa, các địa phương trong tỉnh cũng đồng thời chỉ đạo tích cực gieo trồng các loại rau màu vụ đông theo phương châm “Sáng lúa, chiều vụ đông”. Từ đầu tháng đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi cho nông dân thu hoạch lúa mùa và trồng cây vụ Đông. Cũng theo báo cáo tiến độ sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 19/10, toàn tỉnh đã gieo trồng được 7.414 ha rau màu, bằng 88,03% cùng kỳ năm 2017 và đạt 61% kế hoạch đề ra. Trong đó: cây ngô đạt 2.325 ha; lạc, đậu tương 243 ha; bí các loại 1.165 ha; rau màu các loại 2.876 ha.
Cây ăn quả: Năm nay thời tiết thuận lợi cho quá trình ra hoa, đậu quả của một số loại cây ăn quả như: nhãn, vải, táo,... Vì vậy, năng suất, sản lượng một số loại cây ăn quả trên địa bàn tỉnh cho năng suất cao hơn năm 2017. Đối với cây nhãn, vải thu hoạch xong, theo báo cáo sơ bộ các huyện, thành phố thì sản lượng nhãn đạt 41.500 tấn, tăng 10.773 tấn (tăng 35,06%), sản lượng vải đạt 10.150 tấn, tăng 2.565 tấn (tăng 33,81%); sản lượng cam, quýt và cây có múi khác ước đạt 46.420 tấn, tăng 8,72%; sản lượng táo ước đạt 6.620 tấn, tăng 6,37%.
Chăn nuôi
Trong tháng qua, trên địa bàn tỉnh không xảy ra các dịch bệnh nguy hiểm trên gia súc, gia cầm. Đến nay, các địa phương vẫn duy trì tăng cường cán bộ kiểm tra, giám sát để phát hiện sớm dịch bệnh, bên cạnh đó còn thực hiện công tác kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển gia súc, gia cầm. Theo ngành chức năng, để chủ động bảo vệ đàn vật nuôi trong những những tháng cuối năm, toàn tỉnh phấn đấu tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm đạt tỷ lệ 100% số con trong diện tiêm. Kế hoạch tiêm phòng vụ Thu-Đông cho đàn gia súc, gia cầm tập trung từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2018. Đến thời điểm này, các huyện, thành phố đã hoàn thành tiêm phòng tả và tụ huyết trùng cho đàn lợn; hoàn thành tiêm phòng tụ huyết trùng cho đàn trâu, bò và đang triển khai tiêm phòng bệnh cúm gia cầm và bệnh dại trên đàn chó, mèo.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười tăng 10,70% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng giảm 19,86%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,74%; sản xuất, phân phối điện, nước nóng và hơi nước tăng 15,92%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,65%. Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng tăng so với cùng kỳ năm 2017 như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 6,59%; thức ăn cho gia cầm tăng 15,00%; nước khoáng không ga tăng 14,34%; sợi tổng hợp tăng 7,24%; quần áo các loại tăng 16,78%; cửa sổ ra vào bằng gỗ tăng 22,62%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 19,81%; sản phẩm bằng plastic tăng 20,22%; sắt thép các loại tăng 2,29%; mạch điện tử tích hợp tăng 11,63%; sợi quang và các bó sợi quang, cáp sợi tăng 7,81%; dây điện đơn dạng cuộn tăng 19,26%; phụ tùng của xe có động cơ tăng 23,54%; điện thương phẩm tăng 10,92%;
Tính chung mười tháng năm 2018, Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,49% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó: Công nghiệp khai khoáng (cát) giảm 21,51%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,48%; sản xuất và phân phối điện tăng 16,18%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,05%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm 2017 như: mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền tăng 8,20%; thức ăn cho gia súc tăng 8,85%; thức ăn cho gia cầm tăng 5,04%; nước khoáng không ga tăng 4,32%; quần áo các loại tăng 15,07%; cửa sổ ra vào bằng gỗ tăng 19,12%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 14,84%; sản phẩm bằng plastic tăng 11,24%; gạch xây bằng đất sét nung tăng 5,51%; sắt thép các loại tăng 9,55%; mạch điện tử tích hợp tăng 17,97%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37,5W tăng 24,58%; sợi quang và các bó sợi quang, cáp sợi tăng 7,13%; dây điện đơn dạng cuộn tăng 12,05%; phụ tùng của xe có động cơ tăng 6,92%; điện thương phẩm tăng 14,18%.
3. Hoạt động đầu tư
a. Vốn đầu tư ngân sách địa phương
Ước tính vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng Mười đạt 200.080 triệu đồng, tăng 3,52% so với tháng trước và tăng 15,29% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 79.980 triệu đồng, tăng 4,85% so với tháng trước và giảm 1,18% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách cấp huyện đạt 50.480 triệu đồng, giảm 0,94% so với tháng trước và tăng 24,30% so với cùng kỳ năm 2017; vốn ngân sách cấp xã đạt 69.620 triệu đồng, tăng 5,41% so với tháng trước và tăng 33,89% so với cùng kỳ năm 2017.
Tính chung mười tháng năm 2018, vốn đầu tư ngân sách địa phương ước đạt 1.691.473 triệu đồng, tăng 13,64% so với cùng kỳ năm 2017 và đạt 75,46% kế hoạch. Trong đó: vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 758.973 triệu đồng, tăng 1,64% so với cùng kỳ năm 2017 và đạt 63,44% kế hoạch; vốn ngân sách cấp huyện 466.879 triệu đồng, tăng 24,68% so với cùng kỳ năm 2017 và đạt 71,06% kế hoạch; vốn ngân sách cấp xã 465.621 triệu đồng, tăng 26,77% so với cùng kỳ năm 2017 và đạt 19,94% kế hoạch năm.
Hoạt động đầu tư nước ngoài: Tính đến 20/10/2018, toàn tỉnh có 417 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 4.275.213 nghìn USD, trong đó từ đầu năm đến nay có 25 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký là 120.191 nghìn USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: Thứ nhất là Nhật Bản có 154 dự án, vốn đăng ký là 2.797.704 nghìn USD, chiếm 65,56% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 123 dự án, vốn đăng ký 650.885 nghìn USD, chiếm 15,05% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 83 dự án, vốn đăng ký 451.903 nghìn USD, chiếm 10,60% tổng số vốn đăng ký.
5. Thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong tháng Mười ước đạt 2.671.768 triệu đồng, tăng 12,35% so với tháng cùng kỳ năm 2017.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong tháng Mười ước đạt 2.671.768 triệu đồng, tăng 12,35% so với tháng cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.138.071triệu đồng, tăng 11,10%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 143.708 triệu đồng, tăng 11,54%; doanh thu du lịch 560 triệu đồng, tăng 16,67%; doanh thu dịch vụ khác 389.429 triệu đồng, tăng 19,60%. Tính chung mười tháng năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 25.493.580 triệu đồng, tăng 11,20% so với cùng kỳ năm 2017.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa mười tháng năm 2018 ước đạt 20.547.504 triệu đồng, chiếm 80,60% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 10,99% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Doanh thu bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 13,10%; hàng may mặc tăng 8,24%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 2,45%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 39,62%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,83%; ô tô các loại tăng 9,56%; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) tăng 6,58%; xăng, dầu các loại tăng 11,18%; đá quý, kim loại quý tăng 31,64%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành mười tháng năm 2018 ước tính đạt 1.377.125 triệu đồng, chiếm 5,40% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 8,41% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 56.575 triệu đồng, tăng 8,11%; dịch vụ ăn uống 1.314.802 triệu đồng, tăng 8,37%; dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch 5.748 triệu đồng, tăng 21,37%.
Doanh thu dịch vụ khác mười tháng năm 2018 ước đạt 3.569.306 triệu đồng, chiếm 14,0% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 13,46% so với cùng kỳ năm 2017.
6. Chỉ số giá
a. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 năm 2018 tăng 0,28% so với tháng trước. Có 4/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá tăng so với tháng trước, bao gồm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,41%; nhóm may mặc, mũ, nón, giày dép tăng 0,25%; giao thông tăng 1,84%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. Có 3/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá ổn định so với tháng trước, bao gồm: nhóm thuốc và dịch vụ y tế; bưu chính viễn thông; giáo dục. Có 4/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá giảm so với tháng trước, bao gồm: đồ uống và thuốc lá giảm 0,47%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,05%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,07%; văn hoá, thể thao, giải trí giảm 0,07%.
So với tháng 12/2017, Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười năm nay tăng 3,17%. Trong đó: nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 7,12%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,76%; may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,19%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,04%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,33%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 6,22%; dịch vụ giao thông tăng 9,39%; bưu chính, viễn thông giảm 0,75%; dịch vụ giáo dục tăng 1,80%; văn hóa, thể thao, giải trí tăng 2,09%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,33%.
So với tháng cùng kỳ năm 2017, Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười năm nay tăng 3,29%. Trong đó: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,53%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,76%; hàng may mặc, mũ nón, giầy, dép tăng 0,58%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,82%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,53%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 6,22%; dịch vụ giao thông tăng 10,87%; dịch vụ bưu chính, viễn thông giảm 0,75%; giáo dục tăng 1,80%; văn hóa, thể thao, giải trí tăng 2,29%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,92%.
Bình quân chung mười tháng năm 2018, Chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,82% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 4,0%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,51%; hàng may mặc, mũ nón, giầy, dép tăng 1,23%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,03%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 21,97%; dịch vụ giao thông tăng 8,98%; bưu chính, viễn thông giảm 0,76%; dịch vụ giáo dục tăng 3,30%; dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí tăng 2,39%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,88%.
b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng Mười tăng 0,06% so với tháng trước và ở mức giá bình quân 3.456.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,07% so với tháng trước, mức giá bình quân 23.398 đồng/USD.
6. Hoạt động vận tải
a. Hoạt động vận tải hành khách
Vận tải hành khách tháng Mười ước đạt 1.335 nghìn lượt người vận chuyển và 71.220 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 18,40% về lượt người vận chuyển và tăng 11,44% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2017; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 56.179 triệu đồng, tăng 19,18%. Tính chung mười tháng năm 2018, vận tải hành khách ước đạt 12.072 nghìn lượt người vận chuyển và 702.645 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 13,69% về lượt người vận chuyển và tăng 10,82% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2017; doanh thu vận tải hành khách ước đạt 533.895 triệu đồng, tăng 14,57%.
b. Hoạt động vận tải hàng hóa
Vận tải hàng hoá tháng Mười ước đạt 2.786 nghìn tấn vận chuyển và 99.384 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 17,71% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 16,60% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2017; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 230.400 triệu đồng, tăng 16,53%. Tính chung mười tháng năm 2018, vận tải hàng hóa ước đạt 24.789 nghìn tấn vận chuyển và 886.630 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 12,53% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 11,65% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2017; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.992.723 triệu đồng, tăng 12,60%.
7. Hoạt động tài chính, ngân hàng
a. Thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách tháng Mười ước đạt 1.445.974 triệu đồng, tăng 25,68% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Thu nội địa 1.133.100 triệu đồng, tăng 41,95%; thuế xuất nhập khẩu 312.694 triệu đồng, giảm 11,21%. Một số khoản thu trong tháng dự tính như sau: Thu từ DNNN trung ương 37.804 triệu đồng, tăng 131,97%; thu từ DNNN địa phương 3.450 triệu đồng, giảm 16,44%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 307.531 triệu đồng, tăng 52,26%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 453.301 triệu đồng, tăng 53,79%; thu lệ phí trước bạ 27.927 triệu đồng, tăng 6,91%; thu thuế thu nhập cá nhân 74.307 triệu đồng, tăng 27,04%; các khoản thu về nhà đất 186.863 triệu đồng, tăng 9,16%.
Tính chung mười tháng năm 2018, thu ngân sách nhà nước ước đạt 9.779.767 triệu đồng, tăng 9,03% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Thu nội địa 7.150.000 triệu đồng, tăng 14,10%; thuế xuất nhập khẩu 2.629.767 triệu đồng, giảm 5,70%. Một số khoản thu nội địa như sau: Thu từ DNNN Trung ương 180.000 triệu đồng, tăng 7,50%; thu từ DNNN địa phương 24.000 triệu đồng, tăng 1,10%; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.480.000 triệu đồng, tăng 31,10%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 2.290.000 triệu đồng, giảm 10,0%; thu lệ phí trước bạ 238.000 triệu đồng, tăng 11,80%; thuế thu nhập cá nhân 622.000 triệu đồng, tăng 14,0%; các khoản thu về nhà đất 1.828.000 triệu đồng, tăng 46,79%; các khoản thu khác 172.000 triệu đồng, tăng 70,85%.
b. Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước tháng Mười ước đạt 764.300 triệu đồng, tăng 22,39% so với cùng kỳ năm 2017.Trong đó: Chi đầu tư phát triển 240.000 triệu đồng, tăng 4,12%; chi thường xuyên 524.300 triệu đồng, tăng 33,07%.
Tính chung mười tháng năm 2018, chi ngân sách nhà nước ước đạt 7.010.688 triệu đồng, tăng 10,77% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 2.354.916 triệu đồng, tăng 15,96%; chi thường xuyên 4.655.773 triệu đồng, tăng 8,32%. Một số lĩnh vực chi thường xuyên như sau: Chi sự nghiệp kinh tế 438.250 triệu đồng, tăng 15,26%; chi giáo dục, đào tạo 1.687.324 triệu đồng, tăng 9,71%; chi sự nghiệp y tế 511.358 triệu đồng, tăng 28,94%; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 98.024 triệu đồng, tăng 6,37%; chi đảm bảo xã hội 362.123 triệu đồng, giảm 13,46%; chi quản lý hành chính 1.094.878 triệu đồng, tăng 2,98%.
c. Hoạt động ngân hàng
Tính đến 30/9/2018, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đạt 72.124.643 triệu đồng, tăng 11,80% so với thời điểm 31/12/2017. Trong đó: Nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 62.475.259 triệu đồng, tăng 11,53% và chiếm 86,62% tổng nguồn vốn. Tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 54.889.907 triệu đồng, tăng 9,82% so với thời điểm 31/12/2017. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn 38.228.246 triệu đồng, tăng 11,83%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 16.661.661 triệu đồng, tăng 5,47%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 51.957.097 triệu đồng, tăng 8,93%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 2.932.810 triệu đồng, tăng 28,30%. Về chất lượng tín dụng: Nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 1.231.831 triệu đồng (chiếm 2,24% tổng dư nợ), tăng 69,82% so với thời điểm 31/12/2017.
8. Một số hoạt động xã hội
a. Hoạt động văn hóa, thể thao
Hoạt động văn hoá: Trong tháng qua, trên địa bàn tỉnh đã diễn ra nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ hướng tới kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930-20/10/2018).
Ngày 22/9/2018, tại Trung tâm Văn hóa huyện Khoái Châu đã diễn ra “Liên hoan văn nghệ quần chúng các làng, tổ dân phố văn hóa tiêu biểu tỉnh Hưng Yên năm 2018” với chủ đề “Nhịp điệu xây dựng Làng, Tổ dân phố văn hóa”. Liên hoan có sự góp mặt của gần 300 diễn viên, nhạc công không chuyên đến từ 10 làng, tổ dân phố văn hóa tiêu biểu xuất sắc, đại diện cho gần 750 làng, tổ dân phố văn hóa trong tỉnh.
Ngày 28/9/2018, tỉnh tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình và biểu dương gia đình văn hóa tiêu biểu lần thứ III, giai đoạn 2013-2017. Tại hội nghị, 60 tập thể, cá nhân và 62 gia đình có thành tích trong thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa và triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình được tỉnh tặng Bằng khen.
Hoạt động thể thao: Phong trào thể dục thể thao (TDTT) được duy trì và phát triển trong toàn tỉnh; các cấp, các ngành đã tổ chức hàng trăm lượt thi đấu, giao lưu TDTT và các trò chơi truyền thống. Tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; chất lượng hoạt động TDTT quần chúng; phát triển phong trào TDTT trong cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, người cao tuổi, học sinh, sinh viên và trong lực lượng vũ trang.
Ngày 28/9, giải Bóng chuyền hơi người cao tuổi tỉnh Hưng Yên năm 2018 được tổ chức thành công tốt đẹp. Tham gia giải có 10 đội bóng chuyên nam, 9 đội bóng chuyền nữ đến từ 10 huyện, thành phố.
Ngày 08/10, Hội thao Nông dân tỉnh năm 2018 đã diễn ra sôi nổi. Tham dự hội thao có 10 đoàn, đại diện cho hội viên, nông dân đến từ 10 huyện, thành phố với 192 vận động viên. Nội dung thi đấu gồm 3 môn: Bóng chuyền da nam, Bóng bàn và Cầu lông.
Thể thao thành tích cao: Tiếp tục chuẩn bị tốt lực lượng vân động viên tham dự các giải thể thao quốc gia và tham dự Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VIII năm 2018. Tỉnh đã tham gia 12 giải thể thao quốc gia, đạt 48 huy chương các loại, trong đó 11 HCV, 13 HCB, 24 HCĐ. Toàn tỉnh hiện có 33 vận động viên đạt đẳng cấp quốc gia (4 vận động viên đạt Kiện tướng, 29 vận động viên đạt cấp I).
b. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 16/9/2018 đến ngày 15/10/2018, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã phát hiện 6 vụ vi phạm môi trường, ra quyết định xử phạt 5 vụ với số tiền 102 triệu đồng, 1 vụ đang trong quá trình xác minh làm rõ. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã phát hiện 98 vụ vi phạm môi trường, trong đó đã xử lý 77 vụ, xử phạt 2.770 triệu đồng.
Từ ngày 17/9/2018 đến ngày 15/10/2018, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên xảy ra 1 vụ cháy, không có vụ nổ. Vụ cháy xảy ra tại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, gây thiệt hại về tài sản 7 triệu đồng, không có thiệt hại về người.
Vụ cháy ngày 16/9/2018 tại Nhà máy kết cấu thép phụ tùng ô tô của Công ty cổ phần cơ khí 120, thuộc Tổng Công ty công nghiệp ô tô Việt Nam đã thống kê được số thiệt hại về tài sản là 2.000 triệu đồng.
c. An toàn giao thông
Số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 16/9/2018 đến 15/10/2018, toàn tỉnh xảy ra 7 vụ tai nạn giao thông (đều là tai nạn đường bộ), làm chết 9 người, làm bị thương 8 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giảm 9 vụ, giảm 56,25%; số người chết giảm 3 người, giảm 25,0%; số người bị thương giảm 5 người, giảm 38,46%. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/10/2018, toàn tỉnh đã xảy ra 132 vụ tai nạn giao thông, làm chết 97 người, làm bị thương 101 người. So với cùng kỳ năm 2017, số vụ tai nạn bằng với cùng kỳ năm 2017; số người chết giảm 2 người, giảm 2,0%; số người bị thương tăng 8 người, tăng 8,60%./.